Banner

Khung pháp lý nào cho nhà đầu tư ngoại với thị trường ví điện tử Việt?

Hiện 90% thị phần ví điện tử tại Việt nam thuộc về 5 công ty trung gian thanh toán có vốn nước ngoài từ 30 - 90%.

Trong các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt đang sử dụng tại Việt Nam hiện nay, ngoài các loại thẻ tín dụng và ghi nợ của ngân hàng, ví điện tử đang là một thị trường “màu mỡ” nhờ sự kết hợp giữa điện thoại thông minh và internet.

 

Ưu điểm của loại hình thanh toán này là mọi người dùng có thể dễ tiếp cận hơn thẻ ngân hàng và có thể thanh toán chủ động mọi lúc mọi nơi.

 

Ví điện tử được đánh giá là thị trường "màu mỡ" tại Việt Nam với phần lớn
dân số dùng điện thoại thông minh và internet. (Ảnh minh họa: KT).

 

Chia sẻ tại một sự kiện về phương tiện trung gian thanh toán mới đây, ông Nghiêm Thanh Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước cho biết, ví điện tử có nhiều thuận lợi phát triển tại thị trường Việt Nam khi nước ta nằm trong top 20 quốc gia có người dân sử dụng internet nhiều nhất. Số người dùng internet chiếm khoảng 52% dân số và khoảng 55% dân số dùng điện thoại thông minh.

 

Số liệu thống kê, đến hết quý I/2019 của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, toàn thị trường Việt Nam có 27 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ví điện tử. Nhưng 90% thị phần xét về cả giá trị và số lượng giao dịch đều thuộc về 5 công ty trung gian thanh toán. Đáng nói là tất cả những công ty này đều có vốn nước ngoài từ 30 đến 90%.

 

“Điều này đặt ra quan ngại lớn đối với cơ quan quản lý và cả chính phủ. Chúng tôi cũng nghiên cứu điều đó dẫn đến nguy cơ thao túng thị trường vào tay doanh nghiệp nước ngoài”, ông Sơn nêu rõ.

 

Thực tế cho thấy việc tham gia của các doanh nghiệp ngoại vào hoạt động của ngành Fintech Việt Nam đã đem lại những tác động tích cực cho ngành tài chính cũng như thị trường tài chính – ngân hàng.

 

Chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành cho rằng, quy định chung của WTO về hạn chế đầu tư nước ngoài là 30% nhưng tuỳ từng lĩnh vực mà hạn chế này lại khác nhau.

 

Không chỉ Việt Nam mà hầu hết các quốc gia hiện nay có 2 đến 3 lĩnh vực đều cần thận trọng khi mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm an ninh quốc phòng, lĩnh vực liên quan đến lợi ích độc quyền, liên quan đến giá trị gia tăng và nguồn lực.

 

“So với các nước, độ mở cho nhà đầu tư nước ngoại của Việt Nam là không kém. Ngành ngân hàng của nước ta đã là 100%, ngành phân phối sau 5 năm cũng là 100% nhưng với fintech, tài chính thì sao?”, ông Thành nêu thực tế.

 

Trong điều kiện bình thường, nước ngoài sẽ chuyển giao công nghệ, kỹ năng giúp phát triển nhưng trong điều kiện khủng hoảng, khó khăn, các nhà đầu tư nước ngoài bỏ chạy hết sẽ dẫn đến tác động tiêu cực cho nền kinh tế. “Do vậy, nếu có cơ chế Sandbox dành cho lĩnh vực mới như fintech, dù có rủi ro hay điều kiện thay đổi thì hậu quả sẽ không quá lớn”, ông Thành lưu ý.

 

Dự thảo Nghị định 101 của Ngân hàng Nhà nước về thanh toán không dùng tiền mặt quy định tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong công ty trung gian thanh toán là 30%. Hiện ban soạn thảo cũng đang khảo sát ý kiến cộng đồng cho phép sở hữu này có thể có hai mức là 30% và 49%.


Mục tiêu của Nghị đình nhằm tạo ra sự ổn định và an toàn trong chính sách tiền tệ quốc gia, tránh sự thao túng của các nhà đầu tư nước ngoài, đảm bảo chủ quyền quốc gia trong hoạt động tài chính, ngân hàng và tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong nước nắm bắt cơ hội./.

 

Theo VOV.VN